Bước tới nội dung

Invincible (album của Michael Jackson)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Invincible
Album phòng thu của Michael Jackson
Phát hành30 tháng 10 năm 2001 (2001-10-30)
Thu âmTháng 10, 1997 – Tháng 9, 2001
Thể loại
Thời lượng77:05
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Michael Jackson
20th Century Masters – The Millennium Collection: The Best of Michael Jackson
(2000)
Invincible
(2001)
Love Songs
(2002)
Đĩa đơn từ Invincible
  1. "You Rock My World"
    Phát hành: 22 tháng 8 năm 2001
  2. "Cry"
    Phát hành: 1 tháng 12 năm 2001
  3. "Butterflies"
    Phát hành: 8 tháng 2 năm 2002

Invinciblealbum phòng thu cuối cùng của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Michael Jackson, phát hành ngày 30 tháng 10 năm 2001, bởi Epic Records.[2] Đây là album phòng thu thứ mười của Jackson, và là album thứ sáu được phát hành thông qua Epic. Nó là sản phẩm âm nhạc đầu tiên của nam ca sĩ kể từ album phối lại Blood on the Dance Floor: HIStory in the Mix (1997), là album phòng thu đầu tiên của ông trong 6 năm kể từ HIStory: Past, Present and Future, Book I (1995) cũng như là album đầu tiên với toàn bộ những bài hát mới kể từ Dangerous (1991). Bìa album là hình ảnh cận mặt của Jackson được biểu hiện qua năm màu sắc khác nhau - đỏ, xanh lá cây, vàng cam, xanh da trời và bạc. Tương tự như những album trước của Jackson, Invincible tập trung khai thác những chủ đề như tình yêu, lãng mạn, sự cô lập, những chỉ trích của giới truyền thông, và các vấn đề xã hội, với sự tham gia hợp tác của nhiều cộng sự lâu năm của nam ca sĩ như: Rodney Jerkins, Teddy RileyR. Kelly. Nó nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc đương đại.

Được xem là album tốn kém nhất trong sự nghiệp của Jackson, Invincible bắt đầu được sản xuất vào năm 1997 và chỉ hoàn thành trong 8 tuần trước khi phát hành album. Nó được thu âm tại hơn 10 phòng thu âm khác nhau với chi phí thực hiện là hơn 30 triệu đô la. Kết hợp với 25 triệu đô la nếu tính cả chi phí quảng bá album, Invincible được xem là album đắt đỏ nhất từ trước đến nay. Sau khi phát hành, nó đạt vị trí số một tại 11 quốc gia thuộc vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, bao gồm Hoa Kỳ (với doanh số 363.000 bản trong tuần đầu), Vương quốc Anh, Úc, Pháp và Thụy Sĩ. Album cũng lọt vào top 10 tại 6 quốc gia khác. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 13 triệu bản trên toàn thế giới.[3]

Do những tranh chấp giữa Jackson và hãng đĩa,[4] tiến trình quảng bá cho album diễn ra rất ít ỏi. Ba đĩa đơn đã được phát hành từ album, mặc dù tất cả đều chỉ phát hành giới hạn. Đĩa đơn chủ đạo "You Rock My World" chỉ được phát hành hạn chế trên radio, do đó chỉ đạt vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Trên toàn cầu, nơi mà nó đã được phát hành thương mại rộng rãi, bài hát đã thành công hơn, khi đạt ngôi quán quân trên năm bảng xếp hạng, trong khi "Speechless" được phát hành trên sóng radio ở Hàn Quốc. Đĩa đơn chính thức thứ hai, "Cry", không được phát hành tại Hoa Kỳ và đạt được thành công khiêm tốn trên các bảng xếp hạng. Đĩa đơn cuối cùng, "Butterflies" cũng chỉ được quảng bá tại Hoa Kỳ trên radio, do đó chỉ có thể vươn lên hạng 14 bảng xếp hạng đĩa đơn tại đây.

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khoảng thời gian làm thành viên của The Jackson 5, Jackson thường xuyên đóng góp nhiều sáng tác cho nhóm và bắt đầu thực hiện nhiều dự án trên danh nghĩa nghệ sĩ solo, trong đó bao gồm album bán chạy nhất mọi thời đại Thriller (1982), bán được hơn 65 triệu bản kể từ khi phát hành, vô hình tạo nên áp lực cho các dự án sau của Jackson. Trước khi ra mắt Invincible, sản phẩm âm nhạc gần nhất của ông là Blood on the Dance Floor: HIStory in the Mix (1997), còn album phòng thu đã không phát hành trong 6 năm (HIStory: Past, Present and Future, Book I). Invincible được Jackson đánh dấu là "sự trở về đúng nghĩa cho sự nghiệp".[5]

Invincible là một sự tri ân của Jackson dành cho cậu bé 15 tuổi người Na Uy Benjamin "Benny" Hermansen, người đã bị đâm chết bởi một nhóm các phần tử phát xít ở Oslo, Na Uy, vào tháng 1 năm 2001.[6] Mặt khác, lý do của hành động trên là vì Omer Bhatti, một người bạn của Jackson, cũng là người bạn thân thiết của Hermansen.[6] Album này cũng thể hiện tình cảm yêu thương của Jackson dành cho bà Nicholette Sottile và cha mẹ của ông JosephKatherine Jackson.[6]

Quá trình thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Jackson bắt đầu thực hiện những chất liệu mới cho album vào tháng 10 năm 1997, và kết thúc với việc thu âm "You Are My Life" chỉ 8 tuần trước ngày nó ra lò, trở thành album tốn kém thời gian nhất trong sự nghiệp của Jackson.[7] Những bài hát hợp tác với Rodney Jerkins được thu âm tại The Hit Factory ở Miami, Florida.[8] Jackson mong muốn có sự tham gia của ít nhất một rapper trong một bài hát, và phải là "rapper nổi tiếng".[2] Phát ngôn viên của Jackson đề nghị raper Fats đến từ New Jersey; sau khi Jackson nghe bản hoàn thiện của các bài hát, cả hai đồng ý thu âm cùng nhau một bài hát khác cho album.[2] Rodney Jerkins nói rằng Jackson đang tìm tòi một định hướng âm nhạc mới so với trước.[2] Jackson đóng vai trò sáng tác và sản xuất ở phần lớn các bài hát trong Invincible. Ngoài Jackson, album còn có sự góp sức từ Teddy Riley, Andre Harris, Andraeo "Fanatic" Heard, Kenneth "Babyface" Edmonds, R. KellyDr. Freeze Bill Gray và hỗ trợ viết lời từ Kelly, Fred Jerkins III, LaShawn Daniels, Nora Payne và Robert Smith.[9] Album đánh dấu lần thứ 3 Jackson và Riley cộng tác cùng nhau, hai lần trước là trong DangerousBlood on the Dance Floor: HIStory in the Mix. Việc thực hiện Invincible tiêu tốn 30 triệu đô-la,[10] trở thành album đắt nhất từng được thực hiện.[11]

Quảng bá và đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Sony Music đã chi ra 25 triệu đô la để quảng bá Invincible.[10][12] Mặc dù vậy, do những xung đột giữa Jackson và hãng thu âm, album không nhận được sự tiếp thị đáng kể nào.[13] Album sản sinh ba đĩa đơn, mặc dù tất cả đều phát hành giới hạn. "You Rock My World" chỉ được phát hành trên sóng phát thanh tại Hoa Kỳ, do đó chỉ có thể vươn đến vị trí thứ 10 trên Billboard Hot 100. Trên thị trường quốc tế, nơi mà nó được phát hành thương mại, bài hát đã thành công hơn, đạt hạng nhất tại Pháp, top 2 tại Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Bỉ và Vương quốc Anh, top 5 tại Ý, Úc, Thụy Điển và Thụy Sĩ.[14] Đĩa đơn thứ hai, "Cry", không được phát hành tại Hoa Kỳ, và cũng chỉ đạt những vị trí tương đối ở các khu vực khác.[15]

Đĩa đơn thứ ba và cũng là cuối cùng, "Butterflies", chỉ phát hành trên sóng phát thanh Hoa Kỳ, và đạt vị trí thứ 14 trên Billboard Hot 100 và thứ hai trong 5 tuần trên Hot R&B/Hip-Hop Singles Chart.[16] Dù không phát hành chính thức, "Heaven Can Wait" cũng đạt vị trí thứ 72 trên R&B/Hip-Hop Charts do lượt yêu cầu trên sóng phát thanh.[16] "Unbreakable" ban đầu được dự định sẽ phát hành làm đĩa đơn, nhưng sau cùng đã bị hủy bỏ.[17] Tuy nhiên, sau đó nó cũng xuất hiện trong box set The Ultimate Collection.

Khác với những album phát hanh lúc trưởng thành của Jackson, không có tour diễn thế giới nào để quảng bá cho album. Thay vào đó, một chương trình đặc biệt kỷ niệm 30 năm ca hát của ông đã diễn ra tại Madison Square Garden vào tháng 9 năm 2001, đánh dấu cột mốc Michael Jackson dưới danh nghĩa nghệ sĩ hát đơn. Ông biểu diễn "You Rock My World" trong Invincible và tái hợp cạnh các anh em mình trên sân khấu, lần đầu tiên kể từ Victory Tour (1984).[18] Chương trình còn có sự tham gia trình diễn của Whitney Houston, Britney Spears, Mýa, Usher, Tamia, 'N Sync, và Slash, cùng nhiều nghệ sĩ khác.[19] Buổi ghi hình phát sóng trên CBS vào tháng 10 năm 2001 kéo dài 2 giờ đã thu hút 29,8 triệu người xem.[20]

Sau quyết định chấm dứt mọi hành động quảng bá một cách đột ngột của Sony, vào tháng 7 năm 2002, Jackson đã gọi Mottola là một "con quỷ" và "kẻ phân biệt chủng tộc" vì không ủng hộ các nghệ sĩ Mỹ gốc Phi, mà chỉ đơn thuần sử dụng họ cho lợi ích cá nhân.[10][21] Nam ca sĩ còn cáo buộc Sony và ngành công nghiệp thu âm có hành vi phân biệt chủng tộc, cố tình ngăn cản việc quảng bá album của ông.[22] Sony sau đó tuyên bố rằng họ thừa nhận việc tiếp thị Invincible không đủ mạnh, tuy nhiên họ cũng đổ lỗi cho Jackson vì ông từ chối lưu diễn ở Hoa Kỳ.[22]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Invincible
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Unbreakable" (hợp tác với The Notorious B.I.G.)Jackson, Daniels, Jerkis, Payne, Smith, Wallace6:26
2."Heartbreaker"Jackson, Jerkins, Jerkins III, Daniels, Mischke, Gregg5:09
3."Invincible"Jackson, Daniels, Gregg, Jerkins, Jerkins4:46
4."Break of Dawn"Jackson, Dr. Freeze5:32
5."Heaven Can Wait"Jackson, Riley, Heard, Smith, Beal, Laues, Quiller4:49
6."You Rock My World" (hợp tác với Chris Tucker)Jackson, Daniels, Jerkins, Jerkins, Payne5:39
7."Butterflies" (hợp tác với Marsha Ambrosius)Harris, Ambrosius4:40
8."Speechless"Jackson3:18
9."2000 Watts"Jackson, Riley, Gibson, Henson4:24
10."You Are My Life"Jackson, Babyface, Sager, McClain4:33
11."Privacy"Jackson, Belle, Daniels, Jerkins, Jerkins5:05
12."Don't Walk Away"Jackson, Riley, Stites, Vertelney4:24
13."Cry"R. Kelly5:00
14."The Lost Children"Jackson4:00
15."Whatever Happens" (hợp tác với Carlos Santana)Jackson, Riley, Quay, Williams4:56
16."Threatened"Jackson, Jerkins, Jerkins III, Daniels4:18
Tổng thời lượng:77:08

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Argentina (CAPIF)[66] Vàng 20.000^
Úc (ARIA)[67] 2× Bạch kim 140.000^
Áo (IFPI Áo)[68] Vàng 20.000*
Phần Lan (Musiikkituottajat)[69] Vàng 10,000[69]
Pháp (SNEP)[70] Bạch kim 100,000*
Đức (BVMI)[71] Bạch kim 500.000^
México (AMPROFON)[72] Vàng 75.000^
Hà Lan (NVPI)[73] Bạch kim 80.000^
New Zealand (RMNZ)[74] Vàng 7.500^
Na Uy (IFPI)[75] Bạch kim 50.000*
Ba Lan (ZPAV)[76] Vàng 0*
Bồ Đào Nha (AFP)[77] Vàng 20.000^
Thụy Điển (GLF)[78] Vàng 40.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[79] Bạch kim 40.000^
Anh Quốc (BPI)[80] Bạch kim 300.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[81] 2× Bạch kim 2.000.000^
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[82] 2× Bạch kim 2.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Invincible”. AllMusic. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2009.
  2. ^ a b c d Jayson Rodriguez (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson's Musical Legacy, From The Jackson 5 To Invincible”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  3. ^ Tamara Conniff (ngày 30 tháng 8 năm 2009). “We Killed Michael Jackson”. Huffington Post. HuffingtonPost.com, Inc. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009.
  4. ^ Taraborrelli, p. 614–617
  5. ^ Stephen Thomas Erlewine. “Michael Jackson: Invincible”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2010.
  6. ^ a b c Liz McNamaba (ngày 23 tháng 10 năm 2001). “Jacko dedicates Invincible to Benjamin”. Aftenposten. Schibsted ASA. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  7. ^ Brian Hiatt (ngày 21 tháng 12 năm 2000). “Michael Jackson Nearing Completion Of New LP”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2011.
  8. ^ Linda Hobbs (ngày 5 tháng 9 năm 2009). “Rodney Jerkin's Talks MJ's Last Studio Album, Invincible”. Vibe. Viacom. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  9. ^ Invincible liner notes Epic Records (2001).
  10. ^ a b c Jennifer Vineyard (ngày 2 tháng 7 năm 2002). “Michael Jackson Shocks Al Sharpton By Calling Tommy Mottola A Racist”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  11. ^ Branigan, Tania (ngày 8 tháng 9 năm 2001). “Jackson spends £20m to be Invincible”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
  12. ^ Katherine Laidlaw (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Key Facts about Michael Jackson's life”. National Post. CanWest Global Communications. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  13. ^ Taraborrelli, p. 611
  14. ^ “Michael Jackson - You Rock My World (chanson)”. LescCharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  15. ^ “Michael Jackson - Cry (chanson)”. LesCharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  16. ^ a b “allmusic (((Invincible > Charts & Awards > Billboard Singles)))”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  17. ^ Invincible pack-on-stocker Epic Records (2001).
  18. ^ Tania Branigan (ngày 8 tháng 9 năm 2001). “Jackson spends £20m to be Invincible”. The Guardian. London: Guardian Media Group. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  19. ^ George, p. 50–53
  20. ^ “Jackson's CBS Special Moonwalks Over Rivals”. Billboard. ngày 15 tháng 11 năm 2001.
  21. ^ Taraborrelli, p. 610–611
  22. ^ a b Bernard Zuel (ngày 20 tháng 11 năm 2003). “Falling star”. The Sydney Morning Herald. Fairfax Media. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  23. ^ a b “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.
  24. ^ "Australiancharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  25. ^ "Austriancharts.at – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  26. ^ "Ultratop.be – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  27. ^ "Ultratop.be – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  28. ^ "Michael Jackson Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  29. ^ "Danishcharts.dk – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  30. ^ a b c “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.
  31. ^ "Dutchcharts.nl – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  32. ^ "Michael Jackson: Invincible" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  33. ^ "Lescharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  34. ^ “Michael Jackson - Offizielle Deutsche Charts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.
  35. ^ “Greek Charts - Are There Online Archives?”. UKMix. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015.
  36. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 44, 2001". Chart-Track. IRMA.
  37. ^ "Italiancharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  38. ^ a b “Gli album più venduti del 2001” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  39. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. 24 tháng 11 năm 2002. tr. 45. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015.
  40. ^ “Top 100 México”. MexicanCharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  41. ^ "Charts.nz – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  42. ^ "Norwegiancharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  43. ^ “Oficjalna lista sprzedaży”. OLiS. 12 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2011.
  44. ^ "Portuguesecharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 6, 2016.
  45. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  46. ^ “Music Divas & Rock Bands Top South African Certifications” (bằng tiếng Anh). RISA. Bản gốc lưu trữ Tháng 12 20, 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  47. ^ "Swedishcharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  48. ^ "Swisscharts.com – Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  49. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập May 21, 2016.
  50. ^ "Official R&B Albums Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  51. ^ "Michael Jackson Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  52. ^ "Michael Jackson Chart History (Top R&B/Hip-Hop Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 2 June 2012.
  53. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Albums 2001”. ARIA. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  54. ^ “Jaaroverzichten 2001” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  55. ^ “Rapports annueles 2002” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  56. ^ “Chart of the Year 2001”. Mogens Nielsen. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  57. ^ “Jaaroverzichten - Album 2001” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  58. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2001” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  59. ^ “Classement Albums - année 2001” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  60. ^ Nielsen Business Media, Inc (26 tháng 2 năm 2002), “Dido, Linkin Park Lead The Global 20 Of 2001”, Billboard, truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014
  61. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
  62. ^ “Årslista Album - År 2001” (bằng tiếng Thụy Điển). Grammofon Leverantörernas Förening. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  63. ^ “Swiss Year-end Charts 2002”. Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  64. ^ “The Official UK Albums Chart 2001” (PDF). UK Charts Plus. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014.
  65. ^ a b “2002 Year-end Charts” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  66. ^ “Chứng nhận album Argentina – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  67. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  68. ^ “Chứng nhận album Áo – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  69. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  70. ^ “Chứng nhận album Pháp – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  71. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Michael Jackson; 'Invincible')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  72. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. Nhập Michael Jackson ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Invincible ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  73. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. Enter Invincible in the "Artiest of titel" box.
  74. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  75. ^ “Chứng nhận album Na Uy – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  76. ^ Lỗi biểu thức: Dư toán tử <=
  77. ^ PHẢI CUNG CẤP ÍT NHẤT certyear HOẶC id CHO CHỨNG NHẬN BỒ ĐÀO NHA.
  78. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2001” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  79. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Invincible')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  80. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Invincible vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  81. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  82. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2001”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]