Britney Jean
Britney Jean | ||||
---|---|---|---|---|
Bìa bản tiêu chuẩn; bản cao cấp sử dụng hình ảnh tương tự nhưng ở dạng đơn sắc | ||||
Album phòng thu của Britney Spears | ||||
Phát hành | 29 tháng 11 năm 2013 | |||
Thu âm | Tháng 5–10 năm 2013 | |||
Phòng thu |
| |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 36:08 | |||
Hãng đĩa | RCA | |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự album của Britney Spears | ||||
| ||||
Đĩa đơn từ Britney Jean | ||||
|
Britney Jean là album phòng thu thứ tám của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 29 tháng 11 năm 2013 bởi RCA Records. Đây là đĩa nhạc thứ hai được lấy theo tên của Spears sau album thứ ba Britney (2001), mặc dù tên album đề cập đến cả tên và tên đệm của cô. Album cũng đánh dấu tác phẩm đầu tiên của Spears với RCA sau khi hãng đĩa lâu năm của cô Jive Records giải thể vào năm 2011. Nữ ca sĩ bắt đầu thu âm cho Britney Jean vào tháng 5 năm 2013 và tiếp tục đến tháng 10 năm đó. Trong nhiều buổi phỏng vấn, Spears mô tả album là đĩa nhạc mang tính cá nhân nhất trong sự nghiệp của cô, trong đó nữ ca sĩ tham gia đồng sáng tác tất cả bài hát và cộng tác với nhiều nhạc sĩ và nhà sản xuất như Sia và will.i.am để đạt được âm thanh mong muốn. Ngoài ra, album còn có sự tham gia góp giọng của em gái cô Jamie Lynn, T.I. và will.i.am.
Tương tự như những album phòng thu trước, Britney Jean là một bản thu âm pop và EDM, với nội dung được mô tả như một album chủ đề liên quan đến "sự cô đơn trong cuộc sống của một siêu sao".[2] Sau khi phát hành, album nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ cho rằng đĩa nhạc không mang tính cá nhân như quảng cáo và quá trình sản xuất bị lỗi thời. Ngoài ra, album cũng gây nên tranh cãi về tính xác thực trong giọng hát ở một số đoạn.[3] Britney Jean ra mắt ở vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 107,000 bản trong tuần đầu, trở thành album có doanh thu mở màn và đạt thứ hạng thấp nhất của Spears tại Hoa Kỳ. Điều tương tự cũng xảy ra ở Vương quốc Anh, nơi album ra mắt ở vị trí thứ 34; Trên toàn thế giới, Britney Jean lọt vào top 20 và top 30 ở nhiều quốc gia, trong đó lọt vào top 10 ở Canada và Thụy Sĩ.
"Work Bitch" được chọn làm đĩa đơn đầu tiên trích từ album vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, và đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, cũng như gặt hái những thành công đáng kể trên thị trường quốc tế. Đĩa đơn thứ hai, "Perfume" được phát hành vào ngày 4 tháng 11 năm 2013, và đạt vị trí thứ 76 trên Billboard Hot 100. "Til It's Gone" được phát hành trên đài phát thanh Pháp vào ngày 4 tháng 12 năm 2013, và "It Should Be Easy" được gửi đến đài phát thanh Ý vào ngày 13 tháng 6 năm 2014, lần lượt là đĩa đơn thứ ba và thứ tư của album. Không có hoạt động quảng bá nào đáng kể cho album, nhưng Spears đã xuất hiện trên Good Morning America vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, để thông báo về chương trình biểu diễn cư trú kéo dài hai năm (cuối cùng kéo dài đến bốn năm) tại Planet Hollywood Las Vegas, mang tên Britney: Piece of Me.
Thu âm và sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]— will.i.am mô tả mối quan hệ với Spears trong quá trình sản xuất Britney Jean.[4]
Năm 2012, khi đang làm giám khảo cho mùa thứ hai của The X Factor phiên bản Mỹ, Spears được phát hiện trong phòng thu với nhà sản xuất Rodney Jerkins.[5] Nhạc sĩ Elijah Blake nhận xét rằng Spears "chắc chắn muốn vượt qua giới hạn" bằng cách "thử nghiệm những cấu trúc mới và dấn thân vào những nền tảng và thể loại mới."[6] Tuy nhiên, sự hợp tác của họ bị đại diện của Spears phủ nhận, mặc dù ông xác nhận rằng nhà sản xuất Hit-Boy đã làm việc với Spears để tạo ra một "âm thanh toàn cầu" kết hợp với những ảnh hưởng của hip-hop và pop.[7][8] Nhà sản xuất Scoop DeVille cũng làm việc với Spears trong giai đoạn đầu của album.[9] Ngoài ra, Spears cũng thu âm một bài hát chưa sử dụng mang tên "Police" với rapper Wiz Khalifa cho album.[10] Trong một buổi phỏng vấn với Shape, Spears mô tả ý tưởng ban đầu của album theo hướng hip-hop, nói rằng "chắc chắn album lần này sẽ mang nhiều âm hưởng hip-hop hơn là pop."[11]
Tháng 5 năm 2013, Naughty Boy và William Orbit được xác nhận sẽ tham gia vào quá trình thực hiện Britney Jean; Naughty Boy bày tỏ sự hài lòng với thành quả hợp tác của mình với Spears, nói thêm rằng anh luôn muốn "làm chút gì đó khác biệt."[12] Anh bình luận rằng bản thân "là một người hâm mộ lớn của nhạc pop và nền văn hóa này", và muốn "duy trì điều đó [...] theo phong cách riêng."[13] Cuối tháng đó, will.i.am được xác nhận là nhà sản xuất điều hành của dự án. Anh mô tả rằng quá trình thu âm với nữ ca sĩ không giống như những trải nghiệm trước đây của anh với Black Eyed Peas, giải thích thêm rằng "[anh ấy và Spears] đã có những buổi làm việc hấp dẫn, nơi [họ] gắn kết, xây dựng lòng tin và sự thoải mái"[4] Anthony Preston của will.i.am music đóng vai trò hỗ trợ điều hành sản xuất cho đĩa nhạc. Vào tháng 7 năm 2013, Spears xác nhận qua Twitter rằng cô đã "viết một bài hát rất đặc biệt" với Sia,[14] sau đó được tiết lộ là bài hát yêu thích của Spears, bản ballad "Perfume".[15] Tháng sau, cô được cho là đến Lake District ở Vương quốc Anh để tiếp tục làm việc với Naughty Boy và Orbit.[16] Naughty Boy sau đó tuyên bố rằng anh không thể thực hiện album với Orbit vì "không thể đến L.A. vào thời điểm đó [trong lúc] đang quảng bá 'La La La' trên toàn thế giới."[17] Charli XCX tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn năm 2022 rằng cô cũng tham gia viết nhạc cho Britney Jean, nhưng không có thành phẩm nào được đưa vào album.[18]
Trong nhiều buổi phỏng vấn, Spears luôn khẳng định Britney Jean là bản thu âm cá nhân nhất trong sự nghiệp ca hát của cô.[19][20] Nữ ca sĩ tiết lộ rằng trải nghiệm của cô trong những năm gần đây, bao gồm cả việc chia tay với vị hôn phu cũ Jason Trawick,[19] khuyến khích cô "đào sâu hơn và viết ra những bài hát mà [cô nghĩ] mọi người đều có thể liên hệ."[21] Spears nói thêm rằng quá trình sản xuất album là một "trải nghiệm tuyệt vời" và những đồng nghiệp của cô "giúp [cô ấy] biến [ý tưởng của bản thân] thành hiện thực."[21] Spears nói với Rudolph, "Tôi muốn Will là nhân vật trung tâm trong album; tôi không muốn nhận hàng trăm bài hát được gửi đến nữa."[22]
Nhạc và lời
[sửa | sửa mã nguồn]Britney Jean được mô tả là một album chủ đề về "đời nghệ sĩ cô đơn."[2] Bản nhạc mở đầu "Alien" khắc họa người nổi tiếng như một cá thể bị cô lập và được Spears so sánh cảm giác như người ngoài hành tinh.[23] "Alien" sử dụng tiếng bíp từ synthesizer,[24] mà theo một số nhà phê bình, "gợi lại quá trình hợp tác của William Orbit với Madonna trong Ray of Light."[25][26] Bài hát thứ hai "Work Bitch" là một bản EDM,[27] ở đó Spears hát về những điều cần thiết để trở nên giàu có, nổi tiếng và xinh đẹp,[23] liên tục khuyến khích người nghe "hãy bắt tay vào làm việc."[27] Bài hát thứ ba "Perfume" là một bản power ballad chịu ảnh hưởng của thập niên 1980, được Spears mô tả là "vô cùng đặc biệt đối với tôi vì nó chạm đến trái tim tôi, và tôi nghĩ câu chuyện này sẽ liên hệ đến mọi người. Ai cũng từng trải qua khoảnh khắc bất an trong một mối quan hệ, khiến họ trở nên dễ tổn thương và tôi nghĩ bài hát đã nắm bắt được điều đó."[28][29] Bản nhạc thứ tư "It Should Be Easy", hợp tác với will.i.am, nhấn mạnh rằng tình yêu "không nên phức tạp," với việc Spears tưởng tượng ra một tương lai tươi sáng và bình dị với một người đàn ông đánh cắp trái tim cô,[23] với chất giọng "như người máy" và nhịp điệu EDM.[30] Bài hát bị chỉ trích nặng nề vì sử dụng quá nhiều Auto-Tune, được thực hiện bởi will.i.am.[31][32] Bài hát thứ năm của album "Tik Tik Boom" kể về cảnh Spears khẩn cầu người yêu hãy khiến cô "tik, tik, tik, tik, boom" trên nền nhạc trap,[25] được mô tả là "một bản nhạc sôi động trong hộp đêm" và "là bài hát gần nhất mà album mang Blackout 2.0 vào đời thực", với sự góp giọng của rapper T.I.[33]
"Body Ache" tiếp theo chủ đề nhảy múa cuồng nhiệt trong câu lạc bộ, với tiếng còi báo động chói tai và nhịp điệu EDM,[34] trong khi "Til It's Gone" đề cao giá trị ổn định của một mối quan hệ tốt đẹp, ngay cả sau khi tan vỡ,[23] sử dụng âm thanh nhạc điện tử và EDM.[2][35] Với bài hát thứ tám "Passenger", pha trộn một số xung lực EDM trước khi bùng nổ thành nhạc pop-rock "u ám",[30] Spears thể hiện khát khao tìm được hạnh phúc dù phải đánh đổi bằng quyền kiểm soát.[36] "Chillin' with You" có sự góp mặt của em gái Spears Jamie Lynn trong một bài hát nói về việc nắm bắt hạnh phúc giữa âm thanh trap, EDM và country pop tươi trẻ.[26] Bản nhạc kết thúc phiên bản tiêu chuẩn của Britney Jean, "Don't Cry", mở đầu bằng tiếng huýt sáo theo phong cách phim Viễn Tây Ý,[30] với nội dung nói về việc từ chối khuất phục trước nỗi đau sau một mối quan hệ.[23] Một số nhà phê bình gọi đây là "màn thể hiện giọng hát hay nhất của cô trong một album."[31][36]
Tiêu đề và ảnh bìa
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 15 tháng 10 năm 2013, trong một lần xuất hiện trên Capital London, Spears thông báo rằng album phòng thu thứ tám của cô sẽ mang tên Britney Jean, một biệt danh được gia đình và bạn bè nữ ca sĩ trìu mến gọi cô.[37] Vào ngày 24 tháng 10, cùng với một bức thư ngỏ gửi đến người hâm mộ, Spears tiết lộ bìa album với hình ảnh cận mặt cô dưới nền trắng đen, với cụm từ "Britney Jean" được tô màu xanh lam bên trong một trái tim hồng ở gần cuối bìa.[38] Một báo cáo từ ABC News Radio so sánh việc Spears sử dụng tên đệm cho tiêu đề album với album phòng thu thứ tám của Janet Jackson Damita Jo, nói rằng "lấy cảm hứng từ album năm 2004 của Janet Jackson, Damita Jo, Britney Spears đã kết hợp tên và tên đệm của mình—Britney Jean—để tạo nên tiêu đề."[39] Một cây bút của The Huffington Post cho rằng kiểu chữ theo phong cách neon được lấy cảm hứng từ bìa album phòng thu thứ tư của Miley Cyrus Bangerz (2013), trong đó Cyrus để tóc vàng và mặc áo khoác đen ngắn, với tiêu đề "Bangerz" được cách điệu bằng ánh sáng neon huỳnh quang phía trước những cây cọ.[40] Trong khi kiểu chữ được cây bút của The Huffington Post so sánh với Bangerz, Britney Jean đánh dấu ảnh bìa album thứ ba được RCA Records áp dụng kiểu chữ theo phong cách neon, sau Bangerz và Mechanical Bull của Kings of Leon. Byron Flitsch của MTV News có cùng quan điểm, và bổ sung rằng ảnh bìa album gợi nhớ đến đĩa nhạc thứ tư và thứ bảy của Spears là In the Zone (2003) và Femme Fatale (2011).[41] Vào ngày 4 tháng 11, một phiên bản bìa màu được công bố sẽ sử dụng cho bản tiêu chuẩn,[42] trong khi bìa gốc được dùng cho bản cao cấp.[43]
Phát hành và quảng bá
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 5 năm 2013, nhà sản xuất thu âm Danja, người hợp tác với Spears trong quá trình sản xuất album, bình luận rằng anh "[không] biết khi nào [Blackout] tiếp theo sẽ diễn ra, nhưng [anh tin rằng] đây là một [Blackout] khác."[44] Vào ngày 20 tháng 8 năm 2013, Spears khởi chạy lại trang web cá nhân với một bảng thời gian đếm ngược kết thúc vào ngày 17 tháng 9, ban đầu được suy đoán là ngày phát hành đĩa đơn mở đường chưa được công bố của cô.[45] Ngày 17 tháng 9, Spears thông báo trên Good Morning America rằng album của cô sẽ được phát hành vào ngày 3 tháng 12 năm 2013 tại Hoa Kỳ, một ngày sau sinh nhật thứ 32 của cô.[46] Vào ngày 4 tháng 11, album xuất hiện trên iTunes Store để đặt hàng trước.[47] Spears tiết lộ danh sách bài hát cho Britney Jean vào ngày 12 tháng 11, một hành động được cô ngụ ý là sớm hơn dự định sau khi tin tặc "[cố gắng] phá hỏng những bất ngờ [của cô]."[48] Ngày 20 tháng 11, album bị rò rỉ trực tuyến, khiến nữ ca sĩ phải lên tiếng trước sự cố rằng: "Đối với những ai nghe bản rò rỉ... Tôi hy vọng các bạn thích... Tôi đã thực hiện album này dành riêng cho những người hâm mộ trung thành của tôi, vì vậy tôi chỉ hy vọng rằng mọi bài hát đều chạm đến các bạn vì mỗi bài hát đều là một phần của tôi."[49] Năm ngày sau, Britney Jean được phát hành trực tuyến thông qua iTunes Store và iTunes Radio.[50] Album cũng được dán nhãn Parental Advisory,[42] do Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) gắn để xác định những nội dung nhạy cảm.[51]
Không như những đĩa nhạc trước của cô, ngoại trừ album phòng thu thứ năm Blackout (2007),[52] Spears không hề quảng bá rầm rộ cho Britney Jean,[53] và không có hoạt động biểu diễn nào cho album. Tuy nhiên, cô xuất hiện trên Good Morning America để thông báo về chương trình biểu diễn kéo dài hai năm của cô tại Planet Hollywood Resort & Casino, mang tên Britney: Piece of Me, vào ngày 17 tháng 9.[54] Sau đó, Spears đến Vương quốc Anh để quảng bá "Work Bitch" và album trên Alan Carr: Chatty Man, cũng như tham gia xuất hiện phỏng vấn trên The Ellen DeGeneres Show,[55] Entertainment Tonight,[56] và Surprise Surprise.[57] Britney Jean cũng được quảng bá thông qua bộ phim tài liệu I Am Britney Jean, được công chiếu trên E! vào ngày 22 tháng 12; bộ phim đề cập đến quá trình sản xuất và chuẩn bị cho việc phát hành album và ra mắt Britney: Piece of Me.[58] Buổi phát sóng đầu tiên của chương trình tại Hoa Kỳ đã thu hút 0.706 triệu người xem, đạt tỷ suất người xem cao hơn mức trung bình vào Chủ Nhật trên E!,[59][60] trong khi chương trình đạt 0.63 triệu người xem tại Vương quốc Anh.[61] Britney: Piece of Me mở màn vào ngày 27 tháng 12, trong khi vé bắt đầu được mở bán vào ngày 20 tháng 9.[62]
Đĩa đơn
[sửa | sửa mã nguồn]"Work Bitch" được phát hành dưới dạng đĩa đơn mở đường cho Britney Jean vào ngày 15 tháng 9 năm 2013, sớm hơn một ngày so với dự kiến sau khi một phiên bản chất lượng thấp bị rò rỉ bởi "one bad apple".[63] Một cây bút của MuuMuse mô tả bản nhạc là "sự trở lại mạnh mẽ, đúng phong độ" và là "cách thú vị để bắt đầu một kỷ nguyên hoàn toàn mới".[64] Bài hát ra mắt và đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ với 174,000 lượt tải xuống trong tuần đầu,[65] và thành công tương đối ở những thị trường khác.[66] Video ca nhạc cho "Work Bitch" được công chiếu vào ngày 1 tháng 10, trong đó Spears hóa thân thành một nhân vật như nữ chúa tình dục.[67] Video đa phần được giới phê bình khen ngợi, đặc biệt ở phần vũ đạo của cô.[68] Tuy nhiên, Spears tiết lộ rằng cô cảm thấy áp lực khi phải duy trì hình ảnh khiêu khích, giải thích thêm rằng cô "phải cắt bỏ một nửa video vì tôi là một người mẹ và vì, bạn biết đấy, tôi có con, và thật khó để đóng vai một bà mẹ gợi cảm trong khi bạn cũng là một ngôi sao nhạc pop".[69]
"Perfume" được chọn làm đĩa đơn thứ hai của Britney Jean vào ngày 3 tháng 11 năm 2013.[70] Bài hát nhận được phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, và được so sánh với đĩa đơn năm 2004 của Spears "Everytime", nằm trong album phòng thu thứ tư của cô In the Zone (2003).[71] "Perfume" ra mắt và đạt vị trí thứ 76 trên Billboard Hot 100.[72] "Til It's Gone" được gửi đến đài phát thanh Pháp như là đĩa đơn thứ ba vào ngày 4 tháng 12 năm 2013, nhưng không lọt vào bảng xếp hạng.[1] Một số bản phối lại chính thức của "It Should Be Easy" đã được ủy quyền và gửi đến những câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2014. Một phát ngôn viên của Spears cho biết rằng bài hát sẽ không được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ tư và những bản phối lại được "ủy quyền chỉ để sử dụng trong những hộp đêm".[73] Tuy nhiên, vào ngày 13 tháng 6 năm 2014, "It Should Be Easy" được cung cấp đến các đài phát thanh Ý, theo EarOne.[74] "It Should Be Easy" đứng vị trí thứ 121 tại Pháp, thứ 88 tại Canada và thứ 71 tại Thụy Sĩ nhờ vào lượng tải nhạc số.[75] Những bản phối lại chính thức cho "Tik Tik Boom" cũng được ủy quyền tương tự vào tháng 2 năm 2014.[76] "Tik Tik Boom" đạt vị trí thứ 16 trên Bảng xếp hạng Gaon Quốc tế tại Hàn Quốc.[77]
Trong phim tài liệu I Am Britney Jean, Spears đề cập đến việc "Alien" sẽ trở thành đĩa đơn cho album vào một thời điểm nào đó, nhưng kế hoạch chưa bao giờ được thực hiện.[78] Mặc dù không được phát hành dưới dạng đĩa đơn, "Alien" đứng thứ tám trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 ở Hoa Kỳ,[79] và thứ 147 tại Pháp.[80]
Tiếp nhận chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]Điểm số chuyên môn | |
---|---|
Điểm trung bình | |
Nguồn | Đánh giá |
AnyDecentMusic? | 4.9/10[81] |
Metacritic | 50/100[82] |
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
AllMusic | [83] |
The A.V. Club | C[25] |
Chicago Tribune | [26] |
Entertainment Weekly | B+[32] |
The Guardian | [31] |
The Independent | [84] |
Los Angeles Times | [85] |
Rolling Stone | [2] |
Slant Magazine | [35] |
Spin | 3/10[24] |
Britney Jean nhận được những phản ứng từ trái chiều đến tiêu cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, chuyên trang thống kê điểm trung bình dựa trên các bài đánh giá chuyên môn, album nhận được điểm trung bình là 50 trên tổng số 100 điểm, dựa trên 21 bài đánh giá.[82] Jason Lipshutz từ Billboard đưa ra nhận xét tích cực, mô tả dự án là "một sự chuyển tiếp [khi] cô phát hành album đầu tiên ở độ tuổi 30", và làm gợi nhớ đến album phòng thu thứ ba của Spears Britney (2001).[30] Nick Catucci của Entertainment Weeklycũng có suy nghĩ tương tự, nói rằng anh "trân trọng" Spears vì "[vẫn] bí ẩn như cô thiếu nữ được Disney chăm chút, ít biểu lộ cảm xúc từng chào đón chúng ta vào cuối thập niên 90", và nói thêm rằng sự tham gia của will.i.am "thỏa mãn trí tưởng tượng của những người tham dự lễ hội EDM muốn tìm kiếm endorphin."[32] Viết cho tạp chí Rolling Stone, Rob Sheffield mô tả Britney Jean là "album chủ đề về đời nghệ sĩ cô đơn – sau khi gây chú ý vì cuộc đính ước thất bại, Brit trở nên cá nhân và cho ra mắt đĩa nhạc buồn nhất từ trước đến nay của cô."[2]
Một số nhà phê bình cảm thấy album không mang tính cá nhân nhiều như quảng cáo. Chicago Tribune so sánh nội dung album với tiêu đề, cho rằng: "sự cường điệu về album 'cá nhân' nhất của cô bắt đầu từ tiêu đề album [...] muốn đem đến sự thân mật mặc dù những bài hát không thực sự mang lại điều đó."[26] The Atlantic mô tả Britney Jean là "bản phát hành đáng thất vọng nhất của cô từ trước đến nay", gọi album là "nhàm chán" và chỉ trích nội dung của đĩa nhạc, chỉ ra rằng "những cái nhìn thoáng qua về Britney Jean Spears, một nghệ sĩ, thành thật mà nói, vừa không thú vị vừa không khai thác được gì."[86] Neil McCormick của The Daily Telegraph tuyên bố rằng Britney Jean là "màn thoát y tiếp theo trong sự nghiệp của Britney", và cảm thấy rằng quá trình sản xuất đã ngăn cản album trở thành một tác phẩm mang tính cá nhân thực sự.[87] Billboard cảm thấy album "không hoàn toàn làm sáng tỏ tư duy hiện tại của tác giả",[88] và The New York Times mô tả album "mang tính cá nhân như những thông báo trước khi lên máy bay của hãng hàng không."[89]
Quá trình sản xuất album cũng được nhiều nhà phê bình phân tích. Sal Cinquemani từ Slant Magazine đưa ra đánh giá trái chiều, chỉ trích "quá trình sản xuất và chất giọng lỗi thời của album gợi nhớ đến những ngày Brit bán được 10 triệu [đĩa]."[35] Barry Walters từ Spin chỉ trích quá trình sản xuất album của will.i.am, tuyên bố rằng những bài hát anh sản xuất "thay thế giai điệu bằng sự lặp lại và quen thuộc", nhưng lại khen ngợi cách truyền tải giọng hát của Spears trong "Don't Cry".[24]
Thành tựu
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Đề cử cho | Giải thưởng | Kết quả |
---|---|---|---|
2013 | Giải thưởng âm nhạc giữa năm của Billboard[90] | Sự kiện được mong đợi nhất (Britney Jean[a]) | Đoạt giải |
2014 | Giải thưởng do người hâm mộ PopCrush bình chọn[91] | Bài hát của năm ("Work Bitch") | Đề cử |
Video của năm ("Work Bitch") | Đề cử | ||
Phim tài liệu âm nhạc hay nhất (I Am Britney Jean) | Đề cử | ||
2014 | Giải thưởng Âm nhạc Thế giới[92][93] | Album xuất sắc nhất thế giới (Britney Jean) | Đề cử |
Bài hát xuất sắc nhất thế giới ("Work Bitch", "Perfume") | Đề cử | ||
Video xuất sắc nhất thế giới ("Work Bitch", "Perfume") | Đề cử |
Diễn biến thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi phát hành tại Hoa Kỳ, Britney Jean ban đầu được dự đoán sẽ bán được 150–200,000 bản, trong đó Hits Daily Double giải thích về những con số không mấy ấn tượng trên là do "lịch trình quảng bá rất hạn chế của cô, gần như rất ít hoặc không có hoạt động trên truyền hình nào xung quanh thời điểm phát hành."[94] Tuy nhiên, vào ngày phát hành chính thức, doanh số tiêu thụ tiềm năng lại giảm xuống còn 115–120,000 đơn vị.[95] Album ra mắt ở vị trí thứ tư với 107,000 bản,[96] trở thành album phòng thu đạt thứ hạng và lượng đĩa tiêu thụ tuần đầu thấp nhất của Spears. Trước đó, album đầu tay của cô ...Baby One More Time (1999), sở hữu doanh số ra mắt thấp nhất của cô với 121,000 bản.[96] Trong tuần thứ hai trên bảng xếp hạng, album rơi xuống vị trí thứ 22 trên Billboard 200, trở thành album đầu tiên của Spears chỉ tồn tại một tuần trong top 10.[97] Tính đến tháng 5 năm 2020, Britney Jean bán được 280,000 bản tại Hoa Kỳ.[98]
Tại Châu Âu, Britney Jean ra mắt ở vị trí thứ 34 trên UK Albums Chart, bán được 12,959 bản trong tuần đầu tiên.[99] Đây là album có thứ hạng thấp nhất của Spears tại đây, phá vỡ thành tích trước đó của In the Zone (2003) vốn đạt vị trí thứ 13.[100] Đĩa nhạc tụt xuống vị trí thứ 87 ở tuần tiếp theo.[101] Trên thị trường quốc tế, Britney Jean vươn đến top 20 và 30 ở hầu hết những quốc gia. Tuy nhiên, album ra mắt ở vị trí số một tại Trung Quốc.[102][103]
Tranh cãi
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi phát hành album, nhiều nhà phê bình và người hâm mộ cho rằng giọng hát trong "Passenger" vốn bị rò rỉ trực tuyến, không hoàn toàn là giọng của Spears.[104][105] Một số giả thuyết cho rằng Myah Marie, một ca sĩ hát bè trong những album trước của Spears như Circus (2008) và Femme Fatale (2011), đã hát chính ở phần lớn của "Passenger" cũng như những bản nhạc khác trong album.[106] Đội ngũ của Spears phát biểu rằng tác phẩm bị rò rỉ là bản thu nháp.[107] Sau đó, Chelsea Handler cáo buộc Spears không hát chính trong "Perfume", và nhấn mạnh rằng, "Rõ ràng là một người khác hát. Không phải cô ấy."[108] Đại diện của Spears trả lời, "Myah Marie không hát bè trong bài hát nên không được ghi công. Giọng bè duy nhất trong 'Perfume' là của Sia. Britney hát toàn bộ trong 'Perfume'." Sau khi ra mắt Britney Jean, Marie không được đề cập trong thành phần thực hiện của "Passenger" hoặc "Perfume", mặc dù cô được ghi công hát bè trong một số bài hát khác của album. Một năm sau, sau khi một số phân đoạn hát của "Alien" bị rò rỉ trực tuyến, nhiều nhận định cho rằng phần hát chính của Marie cũng được đưa vào bài hát.[109]
Danh sách bài hát
[sửa | sửa mã nguồn]Britney Jean – Bản tiêu chuẩn | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Sản xuất | Thời lượng |
1. | "Alien" |
| 3:56 | |
2. | "Work Bitch" |
|
| 4:08 |
3. | "Perfume" |
|
| 4:00 |
4. | "It Should Be Easy" (hợp tác với will.i.am) |
|
| 3:29 |
5. | "Tik Tik Boom" (hợp tác với T.I.) |
|
| 2:57 |
6. | "Body Ache" |
|
| 3:26 |
7. | "Til It's Gone" |
|
| 3:43 |
8. | "Passenger" |
| 3:41 | |
9. | "Chillin' with You" (hợp tác với Jamie Lynn) |
| 3:39 | |
10. | "Don't Cry" |
|
| 3:15 |
Tổng thời lượng: | 36:08 |
Britney Jean – Bản cao cấp (bản nhạc bổ sung) | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Sản xuất | Thời lượng |
11. | "Brightest Morning Star" |
| 3:00 | |
12. | "Hold on Tight" |
|
| 3:28 |
13. | "Now That I Found You" |
|
| 4:17 |
14. | "Perfume" (The Dreaming Mix) |
| Braide | 4:02 |
Tổng thời lượng: | 50:48 |
Britney Jean – Bản tại Nhật Bản và Trung Quốc (bản nhạc bổ sung)[110] | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Sản xuất | Thời lượng |
15. | "Work Bitch" (The Jane Doze Remix) |
| 2:59 | |
16. | "Work Bitch" (7th Heaven Remix) |
| 4:27 | |
Tổng thời lượng: | 58:34 |
Ghi chú
- "Hold on Tight" bị in sai thành "Hold on Tite" ở mặt sau của các ấn phẩm CD đầu tiên, nhưng đã được sửa lại trên ấn bản tại Nhật.[111][112]
- "Work Bitch" và các bản phối lại trên phiên bản tại Nhật Bản và Trung Quốc đều được đổi thành "Work Work" trong những bản kiểm duyệt của album.
- ^a nghĩa là sản xuất giọng hát
- ^b nghĩa là đồng sản xuất
- ^c nghĩa là sản xuất bổ sung
- ^d nghĩa là người phối lại
Thành phần thực hiện
[sửa | sửa mã nguồn]Thành phần thực hiện được trích từ AllMusic.[113]
- Daniel Andrés Aguilar – trợ lý, hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- David Beckham – sản xuất
- Joe Bozzi – master
- Christopher Braide – sản xuất, sản xuất giọng hát
- Mark Cargill – nhạc trưởng
- AJ Clark – trợ lý, hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- Daddy's Groove – phối khí
- Jacob Dennis – hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- Ana Diaz – giọng hát
- Michelangelo Di Battista – nhiếp ảnh
- Diplo – sản xuất
- Dylan Dresdow – phối khí giọng hát
- Karen Elaine – vĩ cầm trầm
- Vanessa Freebairn-Smith – cello
- Sia – giọng nền
- Freshm3n III – sản xuất
- Lucine Fyelon – vĩ cầm
- Şerban Ghenea – phối khí
- Onree Gill – sắp xếp dàn dây
- Rachel Grace – vĩ cầm
- David Guetta – kỹ sư, soạn nhạc, sản xuất, lập trình
- Neel Hammond – vĩ cầm trầm
- Rani Hancock – A&R
- John Hanes – phối khí kỹ sư
- Keith Harris – sản xuất
- Joakim Harestad Haukaas – guitar
- Zach Heiligman – sản xuất bổ sung
- Billy Hickey – hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- Ghazi Hourani – trợ lý
- Todd Hurtt – hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- Hygrade – nhạc công, sản xuất, lập trình
- Frances Iacuzzi – nhiếp ảnh
- Sebastian Ingrosso – kỹ sư, nhạc công, sản xuất, lập trình
- Chris Kahn – hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- William Kebler "Keebz" – sản xuất bổ sung
- Padraic "Padlock" Kerin – kỹ sư, điều phối dự án, biên tập giọng hát
- Adam Leber – A&R
- Damien Leroy – soạn nhạc, sản xuất, lập trình
- Andre Lindal – guitar, soạn nhạc, lập trình, biên tập giọng hát
- Joshua Lopez – guitar mộc
- Ginny Luke – vĩ cầm
- LWAM – sản xuất bổ sung
- Myah Marie – giọng nền, hỗ trợ giọng chính
- Alan O'Connell – kỹ sư
- William Orbit – nhạc công, sản xuất, lập trình
- Otto Knows – kỹ sư, nhạc công, sản xuất, lập trình
- Joe Peluso – phối khí, kỹ sư dàn dây
- Anthony Preston – hỗ trợ điều hành sản xuất, soạn nhạc, sản xuất, lập trình, sản xuất giọng hát, giọng nền
- Julian Prindle – điều phối dự án, biên tập giọng hát, kỹ sư giọng hát
- Pierre-Luc Rioux – guitar
- Nicky Romero – soạn nhạc, phối khí, sản xuất, lập trình
- Larry Rudolph – A&R
- Bradford H. Smith – trợ lý, hỗ trợ kỹ sư giọng hát
- Britney Spears – giọng chính, sáng tác
- Jamie Lynn Spears – giọng nền, giọng ca khách mời
- Alan Tilston – kỹ sư
- JoAnn Tominaga – nhà thầu âm nhạc
- Giorgio Tuinfort – kỹ sư, soạn nhạc, piano, sản xuất, lập trình
- Michael Valerio – bass
- Richard Vission – sản xuất
- Marcus Van Wattum – soạn nhạc, phối khí, sản xuất, lập trình, thiết kế âm thanh
- Ralph Wegner – thiết kế âm thanh
- will.i.am – kỹ sư, điều hành sản xuất, soạn nhạc, sản xuất, lập trình, sản xuất giọng hát, giọng ca khách mời
- Adrienne Woods – cello
Xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng tháng[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Chứng nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Canada (Music Canada)[146] | Vàng | 40.000^ |
México (AMPROFON)[147] | Vàng | 30.000^ |
Hoa Kỳ (RIAA)[148] | Vàng | 500.000 |
Venezuela (APFV)[149] | Vàng | 5,000[150] |
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng. |
Lịch sử phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Ngày | Phiên bản | Định dạng | Nhãn |
---|---|---|---|---|
Úc[151] | 29 tháng 11 năm 2013 | Cao cấp | CD, tải kĩ thuật số | Sony Music |
Phần Lan[152][153] |
| |||
Đức[154][155] | ||||
Pháp[156][157] | 2 tháng 12 năm 2013 | |||
Vương quốc Anh[158] | Cao cấp | RCA Records | ||
Canada[159][160] | 3 tháng 12 năm 2013 |
|
Sony Music | |
Hoa Kỳ[161][162] | RCA Records | |||
Nhật Bản[163] | 4 tháng 12 năm 2013 | Cao cấp | Sony Music | |
Philippines[164] | 17 tháng 1 năm 2014 | CD | Ivory Records | |
Trung Quốc[165] | 14 tháng 4 năm 2014 | Sony Music | ||
Hoa Kỳ[166][167][168][169] | 17 tháng 4 năm 2020 | Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters) | Legacy | |
17 tháng 5 năm 2021 | ||||
23 tháng 5 năm 2021 | Cassette (Độc quyền tại Urban Outfitters) | |||
31 tháng 3 năm 2023 | Tiêu chuẩn | Đĩa than |
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Hamard, Jonathan (4 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears lance "Til It's Gone" en radio, troisième extrait de l'album "Britney Jean"”. chartsinfrance.net (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
- ^ a b c d e Rob Sheffield (26 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears 'Britney Jean' Review”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Meet the Woman Who Supposedly Recorded the Whole Britney Spears Album”. Obsev. 8 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
- ^ a b Andrew Hampp (16 tháng 5 năm 2013). “Will.i.am on New Britney Spears Album: 'We Start Next Week'”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Sam Lansky (5 tháng 10 năm 2012). “Britney Spears Returns To The Studio With Darkchild In New 'X Factor' Promo”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Sam Lansky (14 tháng 12 năm 2012). “Britney Spears Is Working On A New Album, Says Elijah Blake”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Ray Rahman (9 tháng 1 năm 2013). “Britney Spears working on her next album”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears Welcomes Hit-Boy To Her Clique On Next Album”. MTV News. 24 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Scoop DeVille Hard at Work for Britney Spears, Travis Barker and Eminem”. MTV News. 10 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Wiz Khalifa confirms Britney Spears collaboration”. Digital Spy. 24 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ Connors, Claire (tháng 6 năm 2013). “Britney Does It Again”. Shape. tr. 10.
- ^ Andy Joannou (27 tháng 5 năm 2013). “Naughty Boy, William Orbit working on new Britney Spears album”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Carl Williot (21 tháng 7 năm 2013). “Naughty Boy Says He's Avoiding Dubstep On Britney Spears' New Album”. Idolator. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ Bard O'Mance (12 tháng 7 năm 2013). “Along with most other popstars, Britney's been writing songs with Sia”. Popjustice. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Jocelyn Vena (17 tháng 9 năm 2013). “Britney Spears Says 'Breakups Suck,' But They Make Great Music”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Adam Miller (20 tháng 8 năm 2013). “Britney Spears is Heading To The Lake District To Work With Naughty Boy On New Album?”. Entertainmentwise. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Robbie Daw (8 tháng 11 năm 2013). “Naughty Boy Discusses William Orbit, Madonna And (Not Working With) Britney Spears”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Rossignol, Derrick (4 tháng 3 năm 2022). “Charli XCX Had To Turn Down Collaborating With Britney Spears”. Uproxx. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2022.
- ^ a b K.C. Blumm (20 tháng 9 năm 2013). “Britney Spears's New Album Is About 'Huge Breakup' with Jason Trawick”. People. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears & Will.i.am Dished On 'Britney Jean' At An L.A. Listening Event – idolator”. idolator.com. 22 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b Lewis Corner (25 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears unveils new album 'Britney Jean' artwork”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears Gets Personal on 'Britney Jean'”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b c d e “Britney Spears – Britney Jean – Album Review – Plugged In”. Plugged In (publication). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2014.
- ^ a b c Walters, Barry (3 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears, 'Britney Jean' Review”. Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b c Eakin, Marah (3 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears hands the reins to Will.i.am for her 'most personal album ever'”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b c d Greg Kot (2 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears album review; Britney Jean reviewed”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b Madeline Boardman (15 tháng 9 năm 2013). “'Work Bitch' Leaks Ahead Of Britney Spears' Official Release”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Amy Sciaretto (3 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears, 'Perfume' – Song Review”. PopCrush. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Carl Greenwood (4 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears song Perfume is nearly here and we've got the full lyrics and the single artwork”. Daily Mirror. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b c d Jason Lipshutz (26 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears, 'Britney Jean': Track-By-Track Review”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b c Cragg, Michael (27 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears: Britney Jean – review”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b c Nick Catucci (26 tháng 11 năm 2013). “Britney Jean Album Review”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears, 'Britney Jean' (Album Review)”. MuuMuse. Stern, Bradley. tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ Sterdan, Darryl (27 tháng 11 năm 2013). “Review: Britney Spears not workin' it on new album”. Toronto Sun. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2014.
- ^ a b c Sal Cinquemani (26 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears: Britney Jean”. Slant Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b Newman, Melinda (29 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears is the muse, not the master on 'Britney Jean': Album review”. HitFix. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2014.
- ^ Andy Joannou (15 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears names new album 'Britney Jean'”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Sam Lansky (25 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears Unveils 'Britney Jean' Album Cover, Pens Emotional Letter To Fans”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears Confirms 'Britney Jean' as Title of Eighth Album”. ABC News Radio. 15 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ Rosen, Christopher (25 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears' 'Britney Jean' Album Cover Is A Little Like 'Bangerz'”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ Byron Flitsch (25 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears' 'Britney Jean' Album Cover Is Part 'Bangerz,' Part 'Femme Fatale,' All Iconic!”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b “Britney Jean by Britney Spears”. United States: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean (Deluxe Version) by Britney Spears”. United States: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Danja On Blackout 2.0: "I Believe There's Going To Be Another One"”. MuuMuse. 14 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
- ^ Jason Lipshutz (20 tháng 8 năm 2013). “Britney Spears Teases 'All Eyes On Me' Release with Countdown Clock”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Boardman, Madeline (17 tháng 9 năm 2013). “Britney Spears' Album Release Date Announced As Dec. 3 On 'Good Morning America'”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “'Britney Jean' Pre-Order + 'Perfume' Available Now On iTunes”. Britney.com. 4 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Korina Lopez (13 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears releases 'Britney Jean' tracklist”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears addresses album leaks”. Pressparty. 20 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2019.
- ^ Mike Wass (25 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears' 'Britney Jean': Stream The Full Album”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013.
- ^ “RIAA — Parental Advisory”. Recording Industry Association of America. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Kelefa Sanneh (29 tháng 10 năm 2007). “'Miss Bad Media Karma' Sings, Too”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Gil Kaufman (11 tháng 12 năm 2013). “Is Britney Spears At A Crossroads With Britney Jean?”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
- ^ Katie Kindelan (17 tháng 9 năm 2013). “Britney Spears Announces Las Vegas Show Live on 'GMA'”. ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney on Her New Album”. EllenTV. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
- ^ “Britney Unfiltered on 'Passionate' BF & New Music”. etonline.com. 14 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
- ^ Danielle Gusmaroli (18 tháng 12 năm 2013). “Watch Surprise Surprise as Britney Spears stuns fan by serving him tea at the Savoy”. mirror. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
- ^ Brian Mansfield (14 tháng 11 năm 2013). “E! to air 'I Am Britney Jean' Spears documentary”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Martins, Chris (26 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears' 'I Am Britney Jean' Vegas Doc Is a Ratings Flop”. Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2013.
- ^ Levin, Gary (25 tháng 12 năm 2013). “Nielsen ratings: 'The Voice,' 'X Factor' end seasons”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2013.
- ^ Rigby, Sam (27 tháng 12 năm 2013). “Still Open All Hours tops Boxing Day ratings with 9.4m”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2013.
- ^ Lisa Respers France (17 tháng 9 năm 2013). “Britney Spears takes up residency in Las Vegas”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears Debuts 'Work Bitch' Following Leak By 'One Bad Apple': Listen”. Billboard. 15 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears, "Work Bitch": A Complete Breakdown of Britney's New Single”. MuuMuse. 15 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Gary Trust (25 tháng 9 năm 2013). “Miley Cyrus' 'Wrecking Ball' Spends Second Week Atop Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears — Work B**ch!”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Kevin Rutherford (1 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears Debuts Steamy 'Work Bitch' Video: Watch”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Carl Williott (2 tháng 10 năm 2013). “Britney Spears' 'Work Bitch' Music Video: Review Revue”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Spears says she feels forced to act sexy in music videos: Who's the raunchiest pop star?”. Fox News Channel. 4 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy c���p ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Sam Rigby (3 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears unveils new single 'Perfume' – listen”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Robbie Daw (4 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears' "Perfume": Review Revue”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Gary Trust (13 tháng 11 năm 2013). “Lorde's 'Royals' Leads Hot 100, Lady Gaga's 'Dope' Debuts At No. 8”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ Corner, Lewis (16 tháng 1 năm 2014). “Britney Spears previews new remix package for 'It Should Be Easy'”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ “EarOne | Radio Date, le novita musicali della settimana”. EarOne. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Britney Spears feat. will.i.am – It Should Be Easy – swisscharts.com”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Britney Spears, Roisin Murphy, The Chainsmokers + More: 5 Must-hear Pop Songs Of The Week”. MTV. 11 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Gaon Digital Chart – 2013년 12월 2주차”. Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
- ^ I Am Britney Jean: Britney Spears' Road to Las Vegas. E!.
- ^ “Bubbling Under Hot 100: July 26, 2014”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Britney Spears – Alien”. Ultratop. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Britney Jean by Britney Spears reviews”. Any Decent Music. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
- ^ a b “Britney Jean Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
- ^ Stephen Thomas Erlewine. “Britney Jean – Britney Spears | Songs, Reviews, Credits, Awards”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
- ^ Harley, Kevin (1 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears, 'Britney Jean' (RCA) – album review”. The Independent. London. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
- ^ Roberts, Randall (3 tháng 12 năm 2013). “Britney Spears' 'autobiographical' album on auto-pilot”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
- ^ Feeney, Nolan (2 tháng 12 năm 2013). “The Inevitable Boringness of a 'Personal' Britney Spears Album”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ Neil McCormick (26 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears, Britney Jean, review”. The Daily Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ Lipshutz, Jason (4 tháng 12 năm 2013). “Is Britney Spears' 'Britney Jean' Really Her Most Personal Album? An Investigation”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ Pareles, Jon (29 tháng 11 năm 2013). “Dancey, Trancey, and Dabs of Spice”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ a b “Taylor Swift Rules Billboard.com's 2013 Mid-Year Music Awards”. Billboard. Billboard Media, LLC. 1 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
- ^ Malach, Maggie (23 tháng 1 năm 2014). “Justin Bieber Leads 2014 PopCrush Fan Choice Awards”. Pop Crush. Townsquare Media. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Nomination for World's Best Album”. International Federation of the Phonographic Industry. 27 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
- ^ “Nomination for World's Best Song”. International Federation of the Phonographic Industry. 27 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
- ^ I.B. Bad (22 tháng 11 năm 2013). “I.B. Bad Reveals the Top Five Finalist of the 2013 Season”. Hits Daily Double. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
- ^ Mike Wass (4 tháng 12 năm 2013). “'Britney Jean' On Track For 115,000+ First Week Sales Tally, Unlikely To Debut At Number One”. Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b Caulfield, Keith (11 tháng 12 năm 2013). “Garth Brooks Earns Ninth No. 1 Album, Britney Spears Debuts At No. 4”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
- ^ Grein, Paul (20 tháng 4 năm 2011). “Chart Watch: Beyonce's Christmas Surprise | Yahoo Music – Yahoo Music”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2013.
- ^ Trust, Gary (15 tháng 5 năm 2020). “Britney Spears' Career Sales & Streams, In Honor of 20 Years of 'Oops!...I Did It Again': Ask Billboard Mailbag”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020.
- ^ Jones, Alan (9 tháng 12 năm 2013). “Official Charts Analysis: One Direction sell another 124k of new album”. Music Week. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2013.(cần đăng ký mua)
- ^ “You Better Work, Britney: 'Britney Jean' Debuts at No. 34 in UK”. The Honesty Hour. 8 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Official Albums Chart UK Top 100 – 21st December 2013”. The Official Charts. 21 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Britney Spears – Britney Jean”. ARIA Charts. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b 综合榜 2014年 第16周 (bằng tiếng Trung). Sino Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014.
- ^ Cronin, Melissa (12 tháng 11 năm 2013). “Is Britney Really Singing On Her Album? As Accusations Of Dubbing Fly Online, Spears' Backup Singer Reveals The Shocking Truth”. Radar Online. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2016.
- ^ Dennis, Alicia (19 tháng 11 năm 2013). “That Rumor About Someone Else Singing Britney's Songs Is Not Exactly New”. Zimbio. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2016.
- ^ Russoniello, Matt (22 tháng 8 năm 2016). “Album Review: The Glorious Comeback Miracle of Britney Spears' 'Glory'”. Celebuzz. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
- ^ Grevet, Jordan (14 tháng 11 năm 2013). “Britney Spears accused of not singing...”. Closer (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Chelsea Handler Slams Britney Spears For Lipsynching: 'How Can You Have A Career When You're Not Doing Anything?'”. Radar Online. 26 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2016.
- ^ Russoniello, Matt (26 tháng 9 năm 2014). “Does Britney Spears Even Sing on Her Own Albums?”. Celebuzz. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2016.
- ^ “布兰妮 Britney Spears:真我妮裳 Britney Jean Deluxe(CD 中国豪华限定版 附独家限量精美便签本)”. 29 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017 – qua Amazon.
- ^ “Britney Jean – CD Back Cover”. ukbritney. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Britney Jean – Japan Back CD Cover”. ukbritney. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Britney Jean – Britney Spears: Credits”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2013.
- ^ "Australiancharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 6, 2013.
- ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập December 13, 2013.
- ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập December 6, 2013.
- ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập December 6, 2013.
- ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập December 11, 2013.
- ^ “Top of the Shops – službena tjedna lista prodanih albuma u Hrvatskoj” (bằng tiếng Croatia). Top Lista. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
- ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập January 1, 2014.
- ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 16, 2013.
- ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập December 6, 2013.
- ^ "Britney Spears: Britney Jean" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập December 9, 2013.
- ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập December 11, 2013.
- ^ "Offiziellecharts.de – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập December 10, 2013.
- ^ “Official Cyta-IFPI Charts – Top-75 Albums Sales Chart (Week: 50/2013)” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
- ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 18, 2013.
- ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 49, 2013". Chart-Track. IRMA. Truy cập December 6, 2013.
- ^ "Oricon Top 50 Albums: {{{date}}}" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập December 10, 2013.
- ^ "Charts.nz – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 9, 2013.
- ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 16, 2013.
- ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập December 22, 2013.
- ^ 14, 2013/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập December 9, 2013.
- ^ “2013년 50주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2016.
- ^ “2013년 50주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2016.
- ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 16, 2013.
- ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập December 9, 2013.
- ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Britney Jean" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập December 10, 2013.
- ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập December 9, 2013.
- ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập December 11, 2013.
- ^ “|| RecordLand ||”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Ranking mensual – 2013 Diciembre” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2013.
- ^ “El álbum más vendido durante 2013 en Argentina: "Violetta – Hoy somos más"” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
- ^ “Rapports Annuels 2013” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.
- ^ "Billboard 200 Albums Year End 2014" Lưu trữ tháng 12 12, 2014 tại Wayback Machine. Billboard. Retrieved December 11, 2014.
- ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Britney Jean” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA và Britney Jean ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
- ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – Britney Jean” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
- ^ “Disco de Oro a Britney Spears por su álbum Britney Jean” (bằng tiếng Spanish). Sony Music. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “International Certification Award levels IFPI June 2013” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. tháng 6 năm 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Britney Jean”. Sanity. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. citymarket.fi (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean (Deluxe Version)”. levykauppax.fi (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. Amazon.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean (Deluxe Version)”. Amazon.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. Amazon.fr. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean — Edition Deluxe”. Amazon.fr. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. Amazon.ca. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Britney Jean (Deluxe)”. Amazon.ca. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Britney Jean”. Amazon.com. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Britney Jean (Deluxe Edition)”. Amazon.com. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2013.
- ^ ブリト二―・ジーン. Amazon.co.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Itune Philippines”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ “布兰妮 Britney Spears:真我妮裳 Britney Jean Deluxe(CD 中国豪华限定版 附独家限量精美便签本)”. Amazon.cn (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Britney Spears - Britney Jean” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Britney Spears - Britney Jean” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Britney Spears - Britney Jean” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Britney Spears - Britney Jean [LP] | RECORD STORE DAY”. recordstoreday.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Album năm 2013
- Album của Britney Spears
- Album chủ đề thập niên 2010
- Album sản xuất bởi will.i.am
- Album sản xuất bởi William Orbit
- Album sản xuất bởi Diplo
- Album sản xuất bởi David Guetta
- Album sản xuất bởi Dr. Luke
- Album sản xuất bởi Nicky Romero
- Album sản xuất bởi Cirkut
- Album sản xuất bởi Chico Bennett
- Album sản xuất bởi Giorgio Tuinfort
- Album của RCA Records